1, Phức hợp phân tử MHC, polypeptide kháng nguyên và thụ thể tế bào T
Ở chuột, phức hợp được hình thành từ phân tử lớp I MHC, polypeptide tế bào nội sinh và các phân tử thụ thể tế bào T α, β, thụ thể tế bào I di chuyển theo hướng 20-30 độ trên rãnh kết hợp phân tử lớp I MHC, điều này có nghĩa là định vị vùng tương tác thứ nhất và thứ hai của chuỗi α và chuỗi β của phân tử TCR tại đầu N và đầu C của polypeptide. Trên mỗi CDR, axit amin đều có vị trí cố định và có tác dụng tương hỗ với axit amin trên phân tử MHC. Cấu trúc kiểu này của TCR có tác dụng để tế bào T nhận biết polypeptide kháng nguyên đã kết hợp trên phân tử MHC.
2, Tập hợp phân tử TCR và kích hoạt tế bào T
Mỗi tế bào đều có khoảng 105 thụ thể, mỗi tế bào trình diện kháng nguyên APC cũng có thể hiểu hiện phân tử MHC có số lượng tương tự. Trên thực tế, chỉ có số ít tương tác polypeptide/MHC/TCR mà có thể có được tín hiệu tối thiểu để kích hoạt tế bào T, hơn nữa loại tương tác này có thể chỉ xảy ra trong thời gian ngắn, mà không cần thiết tất cả phân tử TCR đều phải tham gia quá trình này.
3, Polypeptide kháng nguyên vừa có thể kích hoạt tế bào T cũng có thể ngăn chặn kích hoạt tế bào T
Độ trưởng thành của TCR đối với polypeptide kháng nguyên trên phân tử MHC thấp hơn rất nhiều so với độ trưởng thành của kháng thể đối với biểu vị kháng nguyên. Polypeptide có thể kích hoạt tế bào T gọi là polypeptide hoạt tính, thay đổi 1-2 axit amin sẽ có thể ngăn chặn tác dụng kích hoạt của polypeptide đối với tế bào T. Thông thường, độ trưởng thành của polypeptide ngăn chặn này đối với TCR thấp hơn polypeptide hoạt tính ban đầu, nhưng có lúc một polypeptide đã qua xử lý có thể có độ trưởng thành cao trong phức hợp TCR-MHC- polypeptide, nó có khả năng kích hoạt tế bào T tốt hơn polypeptide hoạt tính tự nhiên.