Quá trình phát triển và tiến hóa loài cùng với vi sinh vật gây bệnh không ngừng đấu tranh hình thành một loạt cơ chế phòng thủ, phát huy chức năng miễn dịch sau khi sinh ra tiếp xúc với vi sinh vật gây bệnh hoặc kích hoạt tế bào lympho. Cơ thể thông qua thực hiện chức năng hệ thống miễn dịch, đạt được mục đích giám sát vi sinh vật gây hại, để duy trì sức khỏe cơ thể. Vì thế, chức năng miễn dịch của động vật trực tiếp duy trì khả năng kháng bệnh, cũng là điều tiền đề để động vật phát huy sức sinh sản.
Kháng nguyên RBC (tế bào hồng cầu) là một loại glycoprotein. Sản phẩm gen nhóm máu là một số glycosyltransferaza đặc biệt; kháng nguyên tương thích mô chính có vai trò quan trọng trong việc nhận biết tế bào và phân biệt quá trình tự ngã và vô ngã. Trong quá trình phân hóa tế bào lympho, sự sắp xếp và tổ hợp lại đoạn gen kháng thể sinh ra sự đa dạng kháng thể, là cơ sở cho động vật có phản ứng miễn dịch đặc biệt xảy ra ở các kháng nguyên; gen đáp ứng miễn dịch (Ir) điều khiển mức độ đáp ứng miễn dịch của cá thể đối với kháng nguyên.
Di truyền miễn dịch là cơ sở lý luận quan trọng trong thực tiễn lâm sang y học ở người và động vật đối với giám định huyết thống, truyền máu, cấy ghép và bệnh tan máu ở trẻ sơ sinh, có vai trò quan trọng trong việc làm rõ sự phát triển của hệ thống miễn dịch, nguồn gốc gia súc, hình thành chủng loài, quan hệ và phân loại huyết thống, cải thiện giống nòi, kháng sinh sản.
I, Marker di truyền miễn dịch động vật
Marker di truyền miễn dịch động vật là đánh dấu đặc tính miễn dịch học của động vật, gồm có kháng nguyên hồng cầu và kháng nguyên bạch cầu. Động vật có nhiều nhóm máu khác nhau, và cũng rất đa hình. Bề mặt hồng cầu động vật có rất nhiều kháng nguyên có thể có thể phân biệt các nhóm máu phức tạp – kháng nguyên đặc biệt cho nhóm máu, chúng là nhân tử có bản để phân chia nhóm máu. Các nhân tử cơ bản đều bị chi phối bởi gen, có những gen có thể cùng lúc chi phối hai nhân tử trở lên, mọi nhân tử chịu sự chi phối của gen đều được gọi là loại nhóm. Hồng cầu có các kháng nguyên và không bị ảnh hưởng bởi môi trường, dựa vào quy luật di truyền Melden đơn giản di truyền ổn định cho thế hệ sau. Phức hợp tương thích mô chính là hệ thống kháng nguyên bề mặt tế bào đa hình phức tạp nhất và có tính di truyền đa dạng nhất. MHC có cấu trúc di truyền đặc biệt, gen chuỗi được thừa kế haplotype và phức tạp đa hình. Gen MHC có chức năng sinh học quan trọng, nó không chỉ mã hóa kháng nguyên tương thích mô, điều khiển phản ứng thải ghép, còn có thể điều khiển đáp ứng miễn dịch điều tiết và chi phối synergy của các tiểu nhóm tế bào miễn dịch.
Số lượng marker di truyền miễn dịch động vật phong phú, ít chịu tác động của môi trường, phương tiện kiểm tra đơn giản, là một marker di truyền khá tốt.
Immunoglobulin không chỉ có hoạt tính kháng thể, mà còn có tính kháng nguyên rất tốt đối với động vật dị chủng. Do nhân tố di truyền của các loài động vật và cá thể của chúng khác nhau, mức độ quyết định tế bào B ở tính di truyền cũng khác nhau, do vậy tính kháng nguyên cũng khác nhau. Chịu sự điều khiển của gen di truyền , tính kháng nguyên của phân tử immunoglobulin khác nhau, gọi là marker di truyền immunoglobulin. Căn cứ vào sự khác nhau của marker di truyền, có thể phân tính kháng nguyên của immunoglobulin làm 3 loại (Yếu tố quyết định), là Isotype, Allotypic và Idiotype. Allotypic là marker di truyền ổn định, và cũng dùng vào việc giám định huyết thống.
1, Marker di truyền nhóm máu của động vật
Nhóm máu là chỉ RBC loại kháng nguyên với đặc tính là sự khác nhau của kết cấu kháng nguyên màng tế bào. Hệ thống nhóm máu của gia súc chính như sau:
– Nhóm máu của bò: hiện nay phát hiện hệ thống nhóm máu của bò có 12, tổng cộng có hơn 80 nhân tử kháng nguyên.
– Nhóm máu của lợn: kháng nguyên hồng cầu có 9 hệ thống nhóm máu, hơn 70 loại nhân tử kháng nguyên.
– Nhóm máu của cừu: nhóm máu hồng cầu có 9 hệ thống, hơn 20 loại nhân tử kháng nguyên, hơn 100 kiểu hình.
– Nhóm máu của dê: hiện nay phát hiện có 6 hệ thống nhóm máu, trên 20 loại nhân tử kháng nguyên.
– Nhóm máu của gà: phát hiện gà có 14 hệ thống nhóm máu, là 14 điểm gen, hơn 100 alen. trong đó, nhân tử ở hệ thống B khá nhiều, có trên 30 alen.