Di truyền giới tính

Cân bằng di truyền và quyết định giới tính

Không lâu sau nhiễm sắc thể giới tính được phát hiện, cũng phát hiện ra việc quyết định giới tính phức tạp hơn kết quả quan sát ban đầu rất nhiều. Năm 1932, Bridges đưa ra học thuyết cân bằng gen quyết định giới tính  (Cân bằng di truyền và quyết định giới tính). Ông dùng tia X cá thể ruồi dấm sau khi chiếu tia X đem lai với ruồi dấm lưỡng bội thường, do tác dụng của tia X, nhiễm sắc thể sinh ra trong quá trình giảm phân ở ruồi dấm phân ly không bình thường, các giao tử bấy thường của những nhóm nhiễm sắc thể này sau khi thụ tinh hình thành nhiều cá thể với nhóm nhiễm sắc thể khác nhau, trong đó có nhiều kiểu dị hình giới tính. Nghiên cứu trên các loại dị hình giới tính phát hiện, tỷ lệ giữa ssố lượng nhiễm sắc thể X trong tế bào soma và số lượng nhiễm sắc thể thường có quan hệ mật thiết với giới tính. Khi tỷ lệ số lượng nhiễm sắc thể X và số lượng nhiễm sắc thể thường (dùng X:A biểu thị) bằng 1, là giống cái thường hoặc giống cái thể đa bội, khi tỷ lệ này lớn hơn 1 sẽ là siêu cái, khi tỷ lệ này bằng 0.5 sẽ là giống đực thường hoặc giống đực thể đa bội, khi tỷ lệ này nhỏ hơn 0.5 sẽ là siêu đực; khi tỷ lệ này dao động từ 0.5-1.0, biểu hiện là giống trung gian.

nhiễm sắc thể giới tính của ruồi giấm
nhiễm sắc thể giới tính của ruồi giấm

 

Ảnh hưởng của tỷ lệ giữa nhiễm sắc thể giới tính của ruồi dấm đối với giới tính

Loại giới tính Số lượng nhiễm sắc thể X Bội số nhiễm sắc thể thường A X:A
Siêu cái

 

Cái

 

 

Giống trung gian

 

Đực

 

Siêu đực

3

4

4

3

2

3

2

1

2

1

2

3

4

3

2

4

3

2

4

3

1.50

1.33

1.00

1.00

1.00

0.75

0.67

0.50

0.50

0.33

Chú ý: ruồi dấm siêu đực và ruồi dấm siêu cái, có ngoại hình giống với giống đực và giống cái, nhưng hình thể nhỏ, khả năng sống thấp, đa số không có khả năng sinh sản; giống trung tính là chỉ tuyến sinh dục, cơ quan giao phối và đặc điểm sinh dục thứ phát đều là thể hỗn hợp giữa giống đực và giống cái, đều không có khả năng sinh sản.
Phân tích hình 6-1, xét logic có thể được kết luận sau ( công thức cân bằng di truyền ) : nhiễm sắc thể và và nhiễm sắc thể thường đều màn gen quyết định giới tính, gen giống đực thường nằm trên nhiễm sắc thể Y củ nhiễm sắc thể thường, gen giống cái thường nằm trên nhiễm sắc thể X, hướng phát dục giới tính của hợp tử quyết định bởi hai hệ thống gen này.
Tuy nhiên, do cơ sở di truyền của các loài động vật khác nhau, quan hệ tương đồng 4giữa gen giới tính trên nhiễm sắc thể giới tính và nhiễm sắc thể thường và quan hệ tương đồng của gen giới tính trên nhiễm sắc thể X và nhiễm sắc thể Y không đồng nhất. Ví dụ , ở ruồi dấm, giới tính chỉ được quyết định bởi tỷ lệ số lượng nhiễm sắc thể X và bội số nhiễm sắc thể thường, androgen của nhiễm sắc thể Y thấp, nhưng nhiễm sắc thể giới tính Y ở người và động vật có vú có androgen mạnh, cấu hình nhiễm sắc thể giới tính cho dù là cá thể XXXY, cũng vẫn có thể biểu hiện đặc trưng nào đó của giống đực.

 

The end!

Leave a Reply

Back to top button