Rất nhiều tính trạng số lượng có thể đo lường nhiều lần trong cùng một cá thể, cả đời cá thể ấy có đến mấy ghi chép, biểu hiện là độ lặp lại ở các thời gian khác nhau. Vì vậy, trong việc đánh giá vật nuôi, rốt cuộc nen căn cứ vào lần ghi chép nào? Thông thường, căn cứ vào lần ghi chép nào cũng đều được, nhưng nếu như tiến hành đo lường nhiều lần rồi đánh giá, kết quả sẽ đáng tin cậy hơn. Bởi vì số lần đo lường càng nhiều, càng có thêm nhiều thông tin, sai sót trong việc lấy mẫu càng ít, việc tính toán sẽ càng chuẩn xác hơn. Như vậy, rốt cuộc nên đo lường bao nhiêu lần là thích hợp? điều này phụ thuộc vào mức độ tương quan của tính trạng này trong giá trị nhiều lần đo lường ở cá thể.
1, Khái niệm độ lặp lại và nguyên lý ước lượng
Năm 1937, Lush đã đưa ra khái niệm này trong cuốn sách <kế hoạch gây giống động vật>, dùng để đo lường mức độ tương quan giữa một tính trạng số lượng trong cùng một cá thể bằng nhiều lần đo lường, gọi là hệ số tương quan trong nhóm.
Hệ số tương quan trong nhóm là chỉ hệ số tương quan bình quân của hai thành trong nhóm. Có thể dùng cá thể phân nhóm, vậy thì, số liệu của mỗi nhóm chính là giá trị các lần đo lường của cá thể, cũng có thể phân nhóm gia hệ, vậy thì, số liệu của mỗi nhóm chính là giá trị đo lường các cá thể trong gia hệ. giống với cách tính hệ số tương quan đơn giản lượng lưỡng biến, hệ số tương quan trong nhóm cũng được tính bằng cách tính toán biến lượng phương sai và hiệp phương sai. Tuy nhiên, do trong nhóm không chỉ có một cặp ghi chép, và cũng không thể phân thành biến lượng xác định hai loài, nên mỗi một số liệu đều phải xem là hai biến lượng khác nhau để sử dụng hai lần.
Công thức tính hệ số tương quan trong nhóm: Công thức hệ số tương quan Pearson
\(r = \frac{{\sum\limits_{i = 1}^n {({x_i} – \overline x )({y_i} – \overline y )} }}{{\sqrt {\sum\limits_{i = 1}^n {{{({x_i} – \overline x )}^2}\sum\limits_{i = 1}^n {{{({y_i} – \overline y )}^2}} } } }}\)
Đối với một cá thể, hợp tử của nó một khi hình thành, kiểu hình gen sẽ hoàn toàn cố định, từ đó toàn bộ hiệu ứng gen đều có ảnh hưởng liên tục đối với tất cả tính trạng của cá thể này. Không chỉ có vậy, môi trường bình thường của cá thể (hoặc gọi là môi trường vĩnh cửu), cũng có tác động giống như thế đối với biểu hiện của tính trạng. Hiệu ứng môi trường vĩnh cửu là chỉ hiệu ứng phi cục bộ về mặt thời gian hoặc không gian đối với tính trạng cá thể. Ngoài tác động của yếu tố môi trường vĩnh cửu, một vài yếu tố môi trường đặc biệt tạm thời hoặc cục bộ chỉ ảnh hưởng đến lần giá trị đo lường nào đó của tính trạng cá thể, được gọi là hiệu ứng môi trường tạm thời. Khi tính trạng cá thể được đo lường nhiều lần, hiệu ứng môi trường tạm thời đối với giá trị của các lần đo lường có ảnh hưởng ít hoặc nhiều, có tích cực, có tiêu cực, có thể triệt tiêu lẫn nhau, từ đó có thể nâng cao tính chính xác trong việc ước lượng tính năng sinh sản tính trạng cá thể. Do hiệu ứng kiểu hình gen của cá thể và hiệu ứng môi trường vĩnh cửu quyết định hoàn toàn biểu hiện tính năng của cá thể, năm 1937, Lush đã gọi chung hai bộ phận hiệu ứng này là năng suất tối đa có thể.
Có thể chia hiệu ứng môi trường (E) thành hiệu ứng môi trường vĩnh cửu (EP) và hiệu ứng môi trường tạm thời (ET): E= EP + ET. Vì thế, P = G + E = G + EP + ET.
Độ lặp lại chính là hệ số tương quan trong nhóm, nó là hàm số của phương sai giữa các nhóm và phương sai trong nhóm, vì vậy có thể thông qua tính toàn thành phần phương sai để ước lượng độ lặp lại
2, Ứng dụng của độ lặp lại
- Độ lặp lại có thể ứng dụng trong việc kiểm chứng tính chuẩn xác của ước lượng hệ số di truyền
- Độ lặp lại có thể ứng dụng trong xác định số lần tính trạng cần đo lường .
- Độ lặp lại có thể ứng dụng trong ước lượng năng suất tối đa có thể của cá thể.
- Độ lặp lại có thể ứng dụng trong ước lượng giá trị chăn nuôi và gây giống.
- Độ lặp lại có thể ứng dụng trong xác định hiệu suất các ghi chép đo lường tính năng tổng hợp.