Trung Quốc là nước có nguồn gà phong phú nhất, mức độ sản xuất cao nhất, lượng thức ăn nhiều nhất trên thế giới. Vịt có tính ứng dụng rộng rãi nhất, có các đặc điểm như tốc độ sinh trưởng nhanh, tính chống chịu môi trường, chu kỳ ngắn, thị trường sản phẩm rộng lớn, hiệu suất cao…. tác dụng kinh tế của các giống vịt gồm có trứng, thịt và mục đích kép. Ngoại hình là tính trạng chất lượng quan trọng của giống vịt, do sự khác nhau giữa loại hình, giống và giới tính. Màu lông của vịt lấy trứng hầu hết là màu vừng nâu, màu vừng đen, đốm nâu, còn có số ít là lông màu đen. Màu lông của vịt lấy thịt ngoài màu trắng, đốm trắng đen và màu đen của ngan và vịt Mule, những loài vịt khác đều có lông màu trắng; vịt lấy trứng và lấy thịt ngoài vịt trắng Liên Thành, những con khác đều có màu lông giống như vịt lấy trứng. Nghiên cứu màu lông, đặc trưng hình thể và cơ chế di truyền ở vịt, có ý nghĩa lý luận và giá trị ứng dụng quan trong trong việc cải tiến nguồn gốc giống vịt.
Di truyền tính trạng chất lượng ở vịt gồm các nội dung sau
I – Di truyền tính trạng màu lông
1, Di truyền màu lông vịt nhà
2, Di truyền màu lông ngan
3, Phân tích di truyền màu lông vịt mule
II – Di truyền đặc trưng ngoại hình
III – Di truyền màu vỏ trứng
I – Di truyền tính trạng màu lông
1, Di truyền màu lông vịt nhà
Nghiên cứu chỉ ra rằng, di truyền màu sắc của lông vịt được quyết định bởi 24 gen của 11 điểm gen, trong đó gồm có nhiều alen. Mối quan hệ trội lặn của gen điều khiển màu lông là MB>MR>Md. gen MB có thể quyết định màu đen, sắc tố màu đen viền lông cán; nhưng gen MB lại khác với gen khuếch tán sắc tố đen khác. Kết quả nghiên cứu của đại học nông nghiệp Tứ Xuyên đối với quy luật di truyền màu lông vịt Kiến Xương cho rằng, màu lông vịt Kiến Xương được quyết định bởi gen lặn (e) trên nhiễm sắc thể thường, kiểu hình gen của nó là ee, gen ee át chế gen lặn đối với các gen ở điểm khác.
2, Di truyền màu lông ngan
Đến nay đã phát hiện được rằng màu lông ngan có 10 loại biến dị (Hình 4-1), trong đó có 3 loại biến dị màu lông có thể quy vào loại khuếch tán, đó là khuếch tán màu lam, khuếch tán màu tím nhạt và khuếch tán màu nâu đậm.
Hình 4-1 – Di truyền màu lông ngan
Tính trạng | Alen và mối quan hệ của nó | Mô hình di truyền | |
màu xám
vằn màu nâu màu socola khuếch tán màu lam tím nhạt nâu đậm trắng màu lai đầu trắng |
a, A+
b, B+ br, Br+ ch, CH+ N, n+ l, L+ f, F+ P, p+ d, D+ C, c+ |
Lặn
Lặn Lặn Lặn Trội không hoàn toàn Lặn Lặn Lặn Trội không hoàn toàn Lặn |
Nhiễm sắc thể thường
Nhiễm sắc thể thường Nhiễm sắc thể thường Liên kết giới tính Nhiễm sắc thể thường Nhiễm sắc thể thường Nhiễm sắc thể thường Nhiễm sắc thể thường Nhiễm sắc thể thường Nhiễm sắc thể thường |
Ngan có 3 marker màu lông trắng, trắng toàn bộ, lai, đầu trắng. Năm 1954, Taibel lần đầu giải thích về gen di truyền trắng toàn bộ, biểu hiện bằng gen P. PP là màu trắng, Pp là vằn trắng đen, pp là màu đen. Điểm vằn trắng đen trong di hợp tử có thể thay đổi, các điểm này cũng không nhất quán. Cá thể ngan có màu trắng hoàn toàn thông thường sẽ có một điểm đen ở phần đầu, nhưng điểm đen này chỉ có ở ngan con, khi lớn lên có thể sẽ mất đi. Thế hệ bố mẹ sau khi lai, thế hệ con thường có màu, chứng tỏ rằng gen P và gen màu trắng lặn không phải cùng nguồn gốc. Từ các tài liệu hiện có có thể thấy được rằng, mối quan hệ lặn giữa gen quyết định màu trắng của ngan không giống với các loài gia cầm khác.
Do tỷ lệ thịt nạc và hương thơm ở ngan nên rất được người tiêu dụng ưa chuộng. Làm sao để sản xuất các sản phẩm được người tiêu dùng ưa chuộng dựa vào cơ chế di truyền trên, đã trở thành mục đích chính của người chăn nuôi hiện nay.
3, Phân tích di truyền màu lông vịt mule
Vịt mule là con lai giữa ngan trống và vịt nhà mái, cung cấp thịt. Năm 1962, viện nghiên cứu sinh sản gia súc Nghi Lan Đài Loan đã tiến hành nghiên cứu màu lông vịt mule, đem lai giữa giống vịt cải tạo lông trắng và ngan lông trắng, qua 12 thế hệ sẽ cho ra vịt mule lông trắng. Sau đó, công ty Grimaud của Pháp và viện nghiên cứu chăn nuôi thú y tỉnh Phúc Kiếm Trung Quốc lần lượt chọn ra vịt mule lông trắng (con mẹ), dùng phương pháp chọn giống gần loài và kết quả phân tích di truyền màu sắc chứng tỏ rằng, tỷ lệ lông trắng ở mule khác nhau do yếu tố chủng loài và cá thể con mẹ.
II – Di truyền đặc trưng ngoại hình
Giống vịt nhà (vịt sông thuộc loài Anas linnaeus) có đặc tính sinh học và đặc trưng ngoại hình khác với ngan (thuộc họ Cairina). So với vịt nhà, hình thể ngan to hơn rất nhiều, cơ thể dài, hình thể và cân nặng giữa con trống và con mái cũng chênh lệch rất lớn (còn ở vịt nhà và vịt mule, hình thể và cân nặng giữa con trống và con mái chênh lệch không nhiều); phần đầu con ngan lớn và thô hơn so với trứng, ngắn và hẹp, bướu con vịt trống phát triển hơn vịt mái; cánh con ngan lớn và dài, có sức mạnh, lông cánh dài đến đuôi, ngan vẫn có khả năng bay. Ngan mái có lông cánh dài, có thể bay xa vài chục mét. Phần đuôi ngan mái có 2-4 chiếc lông giới tính, còn ngan trống không có loại lông này.
Vịt nhà phần lớn là mỏ trắng và da trắng, do gen trội Y trên nhiễm sắc thể thường quyết định, gen lặn y+ , y+ biểu hiện là những màu sắc bình thường, gen màu sắc chân C+, R và E tương tác với nhau.
Hình dạng lông được quyết định bởi gen trội không hoàn toàn Cr.
III – Di truyền màu vỏ trứng
Vỏ trứng vịt có các màu trắng (vịt Bắc Kinh, vịt Pekin và vịt đẻ trứng…), màu trắng ngọc (ngan), màu thanh hoặc màu lục (vịt Kim Định) và màu mun (quạ đen mũi trọc)… Vịt đẻ trứng khác loài có hình dạng trứng, trọng lượng và màu sắc trứng tương ứng, và có thể di truyền cho thế hệ sau. Trứng vỏ xanh được quy định bởi gen G+ G+, GG là gen quy định màu thường (kiểu hoang dã).